Nội dung văn bia đề cập việc Nguyễn Danh Nho cúng cho Hội
Tư văn làng/xã quê nhà là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng 240 m2 đất
thổ cư, thuộc khu vườn đình làng, cùng một tòa thạch sàng (còn gọi là chiếu đá)
để dựng ngôi từ vũ, biểu dương người thi đỗ các khoa thi Nho học, làm rạng danh
quê hương, gây dựng phong tục của làng.
Thác bản bia kí hiệu 06129, in rập khoảng năm 1938, tại
đình thôn Nghĩa Phú. Chữ Hán 1 mặt, khổ
1,20x0,95 cm, gồm 15 dòng. Chữ Khai thảo, nét chạm tinh sảo, đẹp như bức thư họa.
Có bốn chữ viết lối dị thể (chữ sách册, chữ tòng 從, chữ tuế 歲 , chữ thời 時 ). Chúng tôi đã thực hiện công việc thẩm định
văn bản học thác bản văn bia, chép chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa. Do khuôn khổ
bài viết, xin được đăng tải phần dịch nghĩa, nêu giá trị của văn bia.

Bia
Tiên hiền thọ cơ.
Dịch nghĩa:
Bia dựng nền thọ, tôn vinh bậc tiên hiền
Văn bia chép việc gây dựng ngôi từ vũ (đền thờ) để tồn tại
lâu dài, dùng thể văn thực lục, văn chép sử.
Tôi, người sinh sau các bậc tiên hiền của làng, họ Nguyễn,
ban đầu tên là Chân Nho, sau đổi là Danh Nho, hiệu Sằn Hiên, người thôn/ xã
Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng. Sinh giờ Dần, ngày 16 tháng Bảy, năm Mậu Dần, niên
hiệu Dương Hòa (1638). Lên bảy tuổi đi học,
năm 13 tuổi đã thuộc làu văn chương, năm 20 tuổi thi Hương trúng trường Ba (đỗ
học vị Tú tài), năm 26 tuổi, khoa thi Hương năm Quý Mão (1663), trúng tuyển
hàng thứ 2 sau người đỗ Hương giải. Năm 27 tuổi, năm Giáp Thìn (1664), thi Hội,
trúng trường 3. Năm 30 tuổi là năm Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670),
trúng khoa Sĩ vọng. Được vua khen, bổ nhiệm chức Huấn đạo(1). Cũng
năm này, thi Hội trúng học vị Tiến sĩ, hàng đệ (đệ tam giáp), đường mây bốn ngả
thanh thản bộ hành, vua chúa tin yêu, thăng chức Cai đạo Hiến sứ(2)
Phủ doãn(3), Tự khanh(4), Thị lang(5). Được
vào cung tham gia bàn bạc việc chính sự, Phụng mệnh đi sứ, làm hết sức mình,
nhiều lần được ban thưởng chức cao tước cao. Nhận mệnh vào cung dạy học cho
Thái tử, bàn việc cơ mật. Sự nghiệp vẻ vang, công danh rạng rỡ.
Có được công danh trên, đều do bậc tiên hiền phù trợ giúp
đỡ, như được chiêm bái thắng cảnh sao Bắc đẩu, núi Thái sơn. Bèn chọn đất thiện
địa (đất lành), diện tích 10 thước (24 x 10 = 240 m2), tại vườn đình làng, cùng
một tòa thạch sàng (chiếu đá). Hứa với Hội văn của thôn/xã nhà dựng ngôi từ vũ
(đền/nhà thờ) thờ cúng, để kính tế như quy định nghi lễ hai kì Xuân, Thu, để
trân trọng đạo thánh hiền, làm rạng rỡ công lao, để gây dựng danh tiếng quê
hương, gìn giữ mãi mãi phong tục, biểu dương khoa cử, gìn giữ mãi mãi nghi thức tế lễ trọng thể, vậy
khắc chữ vào đá để truyền mãi về sau
Ngày tốt tháng 7, năm Chính Hòa 17 (1696)
Nhà thờ dòng họ Nguyễn Danh còn bia Thực sự kí, ghi về tiểu
sử Nguyễn Danh Nho. Đã rất chi tiết, nhưng bia ghi cuộc đời, sự nghiệp quan trường
của ông đến năm 1693. Những năm từ 1693 đến năm 1696 được phản ánh trong bia
Tiên hiền thọ cơ.
Bia không ghi người soạn (tác giả văn bia) nhưng có thể
khẳng định là của Ts Nguyễn Danh Nho từ khảo sát nội dung, ngôn ngữ, văn phong.
Một số chi tiết về tiểu sử được bổ sung, đính chính ở giờ
sinh, từ sinh giờ Tuất sang sinh giờ Dần, ở đổi tên từ Chân Nho sang Danh Nho.
Bia Thực sự bi kí, dòng 1 viết: Ta họ Nguyễn Danh, tên là Nho. Sinh giờ Tuất
ngày 16 tháng Bảy, năm Mậu Dần (1638). Việc đổi giờ sinh đã khắc vào bia đá trước
3 năm, tưởng chuyện nhỏ nhưng không nhỏ bởi lúc này cần đính chính vì liên quan
tới đức tính trung thực của kẻ sĩ. Lá số tử vi của ông qua đối chiếu những dữ
kiện về tính nết, diện mạo, sự kiện cuộc đời thể hiện sinh giờ Dần không phải
giờ Tuất. Câu “Lên bảy tuổi đi học, năm 13 tuổi đã thuộc làu văn chương” chỉ có
trong Tiên hiền thọ cơ chi bi. Tên hiệu Sằn Hiên cũng chỉ ghi ở bia này.
Sau khi kể đại lược về công lao, chức tước được đề bạt,
ban thưởng, tác giả viết: “Có được công danh trên, đều do bậc tiên hiền phù trợ
giúp đỡ”. Đây chính là lí do để tác giả thổ lộ ý định cúng đất, cúng hiện vật
xây ngôi nhà khuyến học của Hội Tư văn làng. Việc mua 240 m2 đất, một
tòa thạch sàng không ghi trị giá bằng số quan tiền nhưng mang ý nghĩa lớn, thể
hiện đức tính khiêm cung, lặng lẽ làm việc thiện. Chữ “mãi thiện địa – mua đất
thiện, đất lành”, cúng cho Hội Tư văn làng phản ánh suy nghĩ chân thành của người
làm việc nghĩa, việc thiện lành.
Có lẽ đây là lần đầu tiên Nghĩa Phú bắt tay vào tạo dựng
thiết chế khuyến học. Cũng là tư liệu lịch sử độc bản hiếm còn ở huyện Cẩm
Giàng.
Mục đích xây ngôi nhà kiêm đền thờ cho Hội Tư văn làng được
xác định từ tâm nguyện: “Hứa với Hội văn của thôn/xã nhà (đất và thạch sàng để)
dựng ngôi từ vũ (đền/nhà thờ) thờ cúng, để kính tế như quy định nghi lễ hai kì
Xuân, Thu; để trân trọng đạo thánh hiền; làm rạng rỡ công lao; để gây dựng danh
tiếng quê hương; gìn giữ mãi mãi phong tục; biểu dương khoa cử; gìn giữ mãi mãi
nghi thức tế lễ trọng thể - tư liệu văn bia Thọ cơ chi bi, từ dòng 12 đến dòng
14”.
Qua văn bia Tiên hiền thọ cơ, ta đã thấy thấp thoáng vị
trí, hình hài ngôi nhà, ngôi đền thờ của Hội Tư văn, nay gọi là Hội Giáo chức
(cũng hơi khiên cưỡng) có từ khá sớm ở làng quê có nhiều vị đỗ đại khoa, trung
khoa, tiểu khoa (tiến sĩ, cử nhân, tú tài). Hiện vật thạch sàng (chiếu đá) đang
trong quần thể đền Xưa, Di tích quốc gia đặc biệt có lẽ thuộc ngôi nhà từ vũ Hội
Tư văn làng Nghĩa Phú.
Thiết nghĩ bia Tiên hiền thọ cơ nên được các cấp chính
quyền, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền huyện Cẩm Giàng, xã Cẩm Vũ và thôn Nghĩa
Phú xác định là căn cứ lịch sử cho phục dựng ngôi từ vũ. Một nghĩa cử hướng vào
mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn nâng cao, bằng phát huy giá trị di sản,
tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn kế thừa truyền thống hiếu học.
Chú thích:
(1) Huấn đạo: là hiệu quan tại phủ, đơn vị hành chính
trên cấp huyện, dưới cấp trấn xứ; nhiệm vụ khảo hạch các sinh đồ, rèn tập các học
sinh. Nguồn Đỗ Văn Ninh, Chức quan Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên 2002.
(2) Cai đạo Hiến sứ: gồm 3 chức: Hiến sát phó sứ, Hiến
sát sứ, Hiến sát sứ ty: Chức quan rất trọng, thường chọn người đỗ tiến sĩ, làm
quan nhiều năm, không sợ cường hào bổ nhiệm; nhiệm vụ, nói bày, đàn hặc, khám
đoán, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khóa, tuần hành, cộng 32 điều. Nguồn,
sách trên
(3) Phủ doãn: chức Tri phủ phủ Phụng thiên. Phủ Phụng
Thiên thời Lê Trung Hưng tương đương thành phố Hà Nội hiện nay. Nguồn, sách
trên
(4) Tự khanh: quan đứng đầu trong đại lý tự của cơ quan
tư pháp, có nhiệm vụ thẩm định vụ án, cùng với Ngũ phủ Đô đốc, Ngự sử đài duyệt
án dâng vua quyết định. Nguồn, sách trên.
(5) Thị lang: chức phó của quan Thượng thư, có Tả Thị
lang, Hữu Thị lang. Nguồn, sách trên.
Đặng Văn Lộc