Văn hóa cơ sở
“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”…
04/05/2024 10:06:58

Để đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi, một vấn đề cốt tử được đặt ra, đó là công tác hậu cần, cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân nhu trang…

Đến cuối năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã kéo dài 8 năm, quân Pháp ngày càng lâm vào thế bị động với nhiều thất bại trên hầu khắp các chiến trường. Trong khi đó, quân ta đã thiết lập được quyền kiểm soát vững chắc tại nhiều khu vực rộng lớn các tỉnh Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn và nhiều khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chính phủ Pháp cũng muốn tìm một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến, nhưng mặt khác muốn tìm một “lối thoát danh dự”. Ngày 20/11/1953 Pháp, đã ồ ạt cho thả hàng nghìn lính dù và chiến cụ các loại xuống Điện Biên Phủ, rồi chỉ 2 ngày sau, chúng đã ném xuống cánh đồng Mường Thanh 6 tiểu đoàn dù, khoảng 4.500 quân.

Điện Biên Phủ là một thung lũng dài 15 km, rộng 5 km ở giữa có sông Nậm Rốm chảy qua. Nơi đây cách Hà Nội 300 km về phía tây, cách Lai Châu 80 km về phía Nam. Xung quanh là núi đồi trập trùng, rừng cây bao quanh.

Âm mưu của Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào, với mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của Việt Nam. Chúng huênh hoang coi Điện Biên Phủ là “cái bẫy” để nghiền nát chủ lực Việt Minh, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công và tự ngạo nghễ tuyên bố đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương.

Tại nơi lòng chảo Mường Thanh, Pháp bố trí 16.200 quân với 21 tiểu đoàn thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam, gồm 49 cứ điểm hỗ trợ nhau, vòng trong, vòng ngoài. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với gần 100 lần máy bay lên, xuống mỗi ngày có thể vận chuyển hàng trăm tấn hàng và thả hàng trăm lính dù để xây dựng và phục vụ cứ điểm.

 

 
Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị thông qua kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ
 
 

Nắm rõ âm mưu, thủ đoạn giặc Pháp, từ đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị TW Đảng đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến “Đánh nhanh thắng nhanh”. Tuy nhiên sau đó đánh giá tình hình thực lực của hai bên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra quyết định, chuyển phương án từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc" nhằm bảo toàn lực lượng và cắt đường tiếp viện của địch, đẩy địch vào thế cô lập. Đó là một quyết định đúng đắn, linh hoạt. Vì lúc đầu địch còn ít, sau này tăng cường  lực lượng đông hơn, hệ thống công sự đã được xây dựng chắc chắn. Nếu ta vẫn đánh nhanh thì có thể có thiệt hại, tổn thất lớn. Cho nên ta phải chuyển sang đánh chắc, tiến chắc.

Để đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi, một vấn đề cốt tử được đặt ra, đó là công tác hậu cần, cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân nhu trang… đủ để nuôi quân đánh giặc dài ngày. Đã có người tính rằng, phải huy động ít nhất hơn 4.000 tấn gạo, hàng trăm tấn rau, thịt, muối… từ hậu phương ra mặt trận. Trong khi đó lại phải vận chuyển qua chặng đường 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, bị máy bay giặc thường xuyên đánh phá. Nếu tính, một dân công gánh 1 kg gạo đến đích, phải có 24 kg gạo để ăn dọc đường. Vậy muốn có số gạo trên phải huy động hơn 2 triệu dân công.

Cùng với sức người vận chuyển, các lực lượng công binh ra sức đẩy mạnh làm đường, sửa đường cho xe cơ giới và huy động các phương tiện xe ngựa, xe đạp thồ, thuyền bè… vận tải lương thực, đạn dược giảm bớt cho sức người. Thời ấy cả nước hừng hực khí thế kháng chiến, hướng về Điện Biên Phủ. Những đội quân gồm thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, có tới hàng chục vạn người được tổ chức biên chế như quân đội, từ các tỉnh Liên khu 3, Liên khu 4 và các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc… tham gia.  

Thời ấy, nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được đẩy lên một tầm cao mới góp phần hóa giải khó khăn tạo thành thuận lợi. Không chỉ phát động phong trào tăng gia sản xuất của nông dân ở vùng tự do Khu 3, Khu 4 nhằm cung cấp lương thực cho tiền tuyến, mà đồng bào Tây Bắc đã giao cả những rẫy lúa, nương ngô cho các đơn vị thu hoạch, để bộ đội ăn no, đánh thắng…

Cơ quan đầu não, Sở chỉ huy của chiến dịch Điện Biên Phủ đặt tại chân núi Pú Đồn, xã Mường Phăng, cách Điện Biên Phủ 40 km. Nơi đây Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyễn Giáp và các tướng lĩnh cấp cao làm việc ngày đêm, theo dõi những diễn biến để kịp thời ra mệnh lệnh. Và giờ phút lịch sử đã đến.

Ngày 13/3/1954, chính thức nổ súng mở màn Chiến dịch. Đợt 1, từ 13 đến 17/3, quân ta tiêu diệt phân khu Bắc. Đánh Him Lam, đồi Độc Lập, Bản Kéo, đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn quân Pháp.

Đợt 2, từ ngày 30/3 đến 30/4, tấn công khu trung tâm, khống chế Mường Thanh, sông Nậm Rốm. Đánh đồi A1, C1 và D1. Cuộc chiến ác liệt đã diễn ra,  quân ta tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, uy hiếp sân bay Mường Thanh.

Đợt 3, từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Khi ấy, các mũi tấn công của quân ta dồn về khu trung tâm, vang tiếng hò reo và tiếng súng nổ. Đúng 17h30 cùng ngày, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng”  của quân đội nhân dân Việt Nam đã tung bay trên nóc hầm Sở chỉ huy của địch, báo hiệu chiến dịch đã toàn thắng. Tướng Đờ-cát-tơ-ri và Bộ Chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kéo cờ trắng xin hàng. Sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, dũng cảm, sáng tạo, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ.

Cuộc chiến kết thúc. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Hơn một vạn tên bị bắt làm tù binh. Hơn 2.200 người chết, khoảng 6.600 người bị thương. Toàn bộ 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 59 phi cơ bị phá hủy, cùng rất nhiều đạn dược, quân trang, quân dụng khác bị thu giữ.

 

 
Cắm cờ Quyết chiến quyết thắng trên nóc hầm Đờ-cát-tơ-ri
 

Ngày hôm sau, 8/5/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc đã gửi thư khen: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời ngợi khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu...”. 70 năm đã trôi qua. Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, mang tầm thời đại sâu sắc, là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường, sức mạnh của khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, thể hiện sự trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.

Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kiện chính trị quan trọng thông qua đó khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; động viên khích lệ đồng bào các dân tộc tỉnh Điện Biên và Tây Bắc; tôn vinh, tri ân người có công với cách mạng, với đồng bào, chiến sĩ đã đóng góp công sức, xương máu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời qua đó góp phần xây dựng phát triển Điện Biên ngày càng giàu mạnh.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử nhân loại, bởi đây là lần đầu tiên quân đội của một nước từng là thuộc địa ở châu Á đã đánh bại đội quân hiện đại và tối tân của một cường quốc châu Âu, được hỗ trợ bởi đồng minh là Hoa Kỳ trong một chiến dịch quân sự lớn. Với thực dân Pháp, là một thảm họa bất ngờ, là một đòn giáng mạnh với phương Tây, đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp. Nó tạo nên một niềm tin cổ vũ mạnh mẽ đối với các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cùng đồng loạt nổi dậy đòi độc lập.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, có một sức mạnh thần kỳ trên chính trường quốc tế. Nó ảnh hưởng rất lớn tới Hội nghị Giơ - ne - vơ 1954, bàn về đình chiến, lập lại hòa bình trên miền Bắc Việt Nam. Và làm cơ sở cho miền Bắc khôi phục kinh tế, hàn gắn chiến tranh, chuẩn bị cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước sau này. 70 năm đi qua, âm hưởng về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn vang vọng trở thành niềm hãnh diện của toàn dân tộc. Những người lính xông pha trên chiến trường Tây Bắc năm xưa, đến nay vẫn đang được xã hội tôn vinh, với danh xưng kính trọng “Người chiến sĩ Điên Biên”, mà biểu tượng là tấm huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên”, rất giản dị nhưng vinh quang. Người trẻ nhất cũng đã ngót nghét tuổi 90. Sau chiến thắng trở về xây dựng gia đình, sinh con, thì em bé chào đời năm ấy bây giờ cũng đã thành người “xưa nay hiếm”.

Tổ quốc Việt Nam anh hùng đã trải qua chặng đường dài, đầy gian nan, máu lửa nhưng huy hoàng oanh liệt. Những tấm gương anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo, Bế Văn Đàn dùng vai làm giá súng… Các anh đã ngã xuống trên chiến trường, máu xương tô thắm màu cờ cách mạng, sống mãi trong bầu trời sông núi Việt Nam, trở thành  nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, thành những áng thơ lưu truyền:

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn!
 …Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh…
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng...”

 

Đó là bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

 
Thiên Gia Trang 
Về Trang Chủ
TRUNG TÂM VĂN HÓA NGHỆ THUẬT TỈNH HẢI DƯƠNG
Địa chỉ : Số 8 Đường Hồng Quang Thành phố Hải Dương 
Điện thoại : (0220).3856689, (0220).3856988 - Email: tapchivhttdlhd@gmail.com    
Trưởng Ban biên tập: Ông Nguyễn Minh Đức
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Đăng nhập
Số lượt truy cập
Đang truy cập: 95
Hôm nay: 518
Tháng này: 4,559
Tất cả: 90,873