Thân Phụ là ông Nguyễn Lương Thiện, làm
nghề dạy học; Thân Mẫu là bà Ngô Thị Tý, thuộc dòng dõi Nho gia, ông bà có 4
người con: 3 gái, 1 trai, ông là con trai út. Dòng họ Nguyễn Lương cư trú lâu
đời ở Thanh Tùng, có truyền thống văn hoá và trọng nhân cách.

Chân dung đồng chí Nguyễn Lương Bằng (1904-1979). Ảnh:
Bảo tàng tỉnh Hải Dương
Thời niên thiếu Nguyễn Lương Bằng là một
thiếu niên tuấn tú, hoạt bát, cần cù, có ý trí, tính tình hoà nhã được mọi người yêu mến, được gia đình cho ăn học chữ Nho ở quê Ngoại. Năm
14 tuổi, Thân Phụ qua đời, cuộc sống gia đình lâm vào cảnh khó khăn. Do đó 15 tuổi ông
đi học may, 17 tuổi xuống Hải Phòng tìm việc làm, sau những năm lao động với
nhiều ngành nghề khác nhau, ông đã thấy chế độ áp bức bóc lột tàn nhẫn của Thực
dân Phong kiến. Từ đó ông quyết tâm học chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp để có điều
kiện tham gia sự nghiệp cứu nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Nguyễn Lương Bằng với các
đại biểu dự Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc tại Hà Nội, ngày 6/2/1961. Ảnh:
Bảo tàng tỉnh Hải Dương
Năm 1925, Nguyễn Lương Bằng làm công
nhân cho một công ty tầu biển của Pháp chạy tuyến Hải Phòng - Hồng Kông. Thông
qua anh Cẩm Xuỳn là một người Hoa, ông được tiếp xúc với Hồ Tùng Mậu và
Nguyễn ái Quốc. Sau khi được
giác ngộ cách mạng, ông gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội vào tháng
12/1925. Kể từ đây ông bắt đầu sự nghiệp cách mạng, đầy tâm huyết mưu lược, đã
từng trải biết bao gian lao, nguy hiểm. Ông được tổ chức giao nhiệm vụ Giao
thông liên lạc với các tổ chức trong và ngoài nước.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng tiếp Đại sứ Cu-Ba sau lễ
nhận Quốc thư, ngày 23/2/1977. Ảnh: Bảo tàng tỉnh Hải Dương
Tháng 10/1929, Nguyễn Lương Bằng được
kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng. Cuối năm 1930 ông bị địch bắt lần thứ nhất
nhưng đã mưu trí trốn thoát, năm 1931 ông
bị địch bắt lần thứ 2, giam tại nhà lao Hải Dương và Hoả Lò (Hà Nội) với án phát lưu
chung thân. Ngày 24/12/1932 ông vượt ngục trở về ấp Dọn (Bình Giang) xây dựng cơ sở, xuất bản Báo Công Nông để
tuyên truyền cánh mạng, cuối năm 1933 ông bị địch bắt lần thứ 3, mang án khổ
sai chung thân. 10 năm bị địch đầy ải ở Sơn La, ông vẫn kiên trì bắt liên lạc
tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước để chờ thời cơ. Ngày 03/8/1943 ông vượt
ngục trở về tiếp tục hoạt động, được bầu là Uỷ viên dự khuyết BCH TW Đảng phụ
trách công tác Mặt trận và Tài chính. Năm 1944, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài
chính của Tổng Bộ Việt minh.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng thăm quê hương Thanh Tùng
(Thanh Miện) và chụp ảnh lưu niệm với các đồng chí lãnh đạo địa phương, ngày
12/6/1977. Ảnh: Bảo tàng tỉnh Hải Dương
Tháng 8/1945, Ông là Uỷ viên ủy ban Dân tộc giải phóng toàn Quốc, ở
cương vị này, ông đã có cống hiến to lớn trong thời kỳ tiền khởi nghĩa của cách
mạng nước nhà. Nguyễn Lương Bằng là một trong 3 đại biểu của Chính phủ lâm thời
vào Huế tước ấn tín của Triều đình nhà Nguyễn, tuyên bố chấm dứt chế độ phong
kiến Việt Nam.
Quá trình công tác từ năm 1951-1969, ông
kinh qua nhiều chức vụ: tháng 5/1951, làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc Gia đầu
tiên của Việt Nam; tháng 5/1952, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của
Việt Nam tại Liên Xô; năm 1956, làm Tổng Thanh tra của Chính phủ; tháng 9/1960,
làm Trưởng ban Kiểm tra của Đảng. Ngày 23/9/1969, ông được cử làm Phó Chủ tịch
nước CHXHCN Việt Nam. Cũng trong thời gian này, ông được bầu là uỷ viên BCH
TW Đảng và Đại biểu Quốc hội khoá 1,2,3,4.

Nhà tưởng niệm cố Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng tại
thôn Đông, xã Thanh Tùng
Ngày 20/7/1979 (Tức ngày 27/6/ năm Kỷ
Mùi) ông từ trần tại Hà Nội, hưởng thọ 75 tuổi, an táng tại nghĩa trang Mai
Dịch Hà Nội.
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng là nhà hoạt
động chính trị lỗi lạc, người có công lớn trong quá trình xây dựng Đảng, Nhà
nước, người chiến sỹ cách mạng kiên cường, bất khuất, trí, dũng song toàn.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, ở cương vị nào ông cũng hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao cả và đạo đức trong sáng được Đảng, Nhà
nước và Nhân dân cảm phục, đồng nghiệp kính trọng gọi là Anh Cả. Sự hy sinh cống hiến của ông, được lịch sử nước nhà ghi nhận và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
(Nguồn:
Đảng ủy xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện)