Văn hóa cơ sở
Tết Nguyên đán một số phong tục, nghi lễ truyền thống
05/02/2024 10:38:47

Tết Nguyên đán còn gọi là Tết Cả, là thời điểm giao thời giữa 2 năm (cũ và mới), được coi là linh thiêng nhất trong năm.

Tết (hay là Tết cổ truyền) là hiếu theo âm từ chữ Hán “tiết” mà ra, chỉ những ngày lễ được phân bố theo các tiết thời gian trong năm, đan xen giữa các khoảng trống trong lịch thời vụ. Ở Việt Nam có 12 cái Tết theo Âm lịch gồm Tết Khai hạ (Tết Hạ nêu - mồng 7 tháng Giêng), Thượng nguyên (rằm tháng Giêng), Hàn thực (3/3), Thanh minh (theo tiết từng năm vào cuối tháng 2 hoặc tháng 3); Đoan ngọ ( 5/5), Trung nguyên (rằm tháng 7); Trung thu (rằm tháng 8), Trùng Cửu (9/9), Trùng thập (10/10); Cơm mới Tết Hạ nguyên vào ngày 1 hoặc rằm tháng 10), ông Táo (23/ Chạp) và Tết Nguyên đán.

            
 
Gói bánh chưng ngày Tết 
 

          Tết Nguyên đán còn gọi là Tết Cả, là thời điểm giao thời giữa 2 năm (cũ và mới), được coi là linh thiêng nhất trong năm. Các nghi lễ cổ truyền xưa diễn ra từ ngày 30 tháng Chạp đến ngày 7 tháng Giêng, song các nghi lễ thường chỉ tập trung diễn ra trong 3 ngày, từ 29 (nếu tháng thiếu) 30 (nếu tháng đủ) của tháng Chạp và đến hết ngày mồng 2 tháng Giêng năm sau. Tết Nguyên đán là Tết cơ bản của gia đình, họ hàng, là thời gian gặp gỡ của con người với thần linh trong nhà (thổ công, táo quân), với tổ tiên, ông bà đã khuất, với Thành hoàng, Tiên sư, Nghệ sư, thầy dậy nghề... Vì thế, vào dịp Tết, các gia đình dù nghèo khó hay giàu sang đều chuẩn bị mọi thứ với tinh thần cao nhất để tỏ lòng thành kính, tri ân trời đất, ông bà, tổ tiên... mong phù hộ cho một năm mới bình an, vạn sự như ý.

          Ngày xưa, cuộc sống khó khăn nên mọi người rất coi trọng việc ăn Tết, Tết được đi liền với việc sắm sửa, chuẩn bị chu đáo cho những ngày được ăn ngon, mặc đẹp. Ngay từ trước Tết hàng tháng các gia đình đã có sự chuẩn bị lương thực, thực phẩm, quẩn áo đẹp để dành đến Tết. Không khí Tết sôi động từ ngày 23 tháng Chạp - ngày tiễn đưa ông Táo lên chầu trời, các gia đình khá giả thường sắm lễ cúng ông táo khá thịnh soạn, với 3 bộ mũ áo, tiền vàng, cá chép giấy và mâm cơm cúng có các món chay (thường là xôi, chè), và món mặn. Các gia đình bình dân khó khăn thì chỉ có hoa, quả, trầu nước. Lịch ông Táo đi chầu trời với thời gian là từ sáng ngày 23 đến trưa ngày 30 thì ông Táo về tiếp tục công việc cho năm sau. Sau khi tiễn đưa ông Táo đi rồi, các gia đình lau sái bàn thờ, tỉa chân hương, thêm tro, hoặc thay bát hương mới. Cửa nhà, đồ đạc, chăn màn được vệ sinh, sắp xếp ngăn nắp, tươm tất. Các gia đình có điều kiện mua sắm thêm đồ dùng mới, trang hoàng nhà cửa bằng những bức tranh, câu đối mới treo Tết.

          Thường cứ đến ngày 28 - 30 Tết, các nhà mới bắt đầu tập trung đi chợ sắm Tết và bán hàng Tết. Với nền kinh tế tự cung tự cấp, các gia đình kinh tế khá giả thường mổ hẳn con lợn, làm giò chả, phần ăn chưa hết được bảo quản bằng các hình thức ướp muối, băm sườn, dán mỡ ăn dần có khi đến hết tháng Giêng mới hết. Các gia đình không có điều kiện thường rủ nhau đụng chung con lợn.

          Đối với gia đình con thứ phải mang lễ đến nhà trưởng (bắt buộc có thẻ hương) thắp hương cho gia tiên và biếu Tết bố mẹ nếu còn sống.

       Từ trưa ngày 29 (tháng thiếu), ngày 30 (tháng đủ) các gia đình dù giàu hay nghèo thì trên bàn thờ gia đình được bày mâm ngũ quả (thường là chuối, bưởi, cam, quýt, khế..) và tiền vàng biếu gia tiên, có mâm cơm thịnh soạn và cũng là bữa tất niên, bữa cơm đầu tiên đón gia tiên về ăn Tết, cũng là thời điểm đón ông Táo sau chuyến đi chầu Trời trở về.

 

          Buổi chiều và buổi tối các thành viên trong gia đình được tắm gội, chuẩn bị quẩn áo mới nhất, đẹp nhất để sáng ngày mồng Một đem ra mặc. Vui nhất là các con cháu ở xa về, cả nhà quây quần bên nồi bánh chưng Tết và tất bật chuẩn bị làm cỗ đón giao thừa. Lễ cúng giao thừa thường có hai lễ: Lễ trong nhà, theo phong tục của người Việt ta từ xưa, mâm cỗ cúng giao thừa được chuẩn bị thịnh soạn, song thường có một đĩa xôi gấc đỏ tươi với ý nghĩa cầu may mắn cho cả năm; một con gà trống hoa luộc (cả tiết, lòng, mề), miệng ngậm bông hồng đỏ với ý nghĩa khoẻ mạnh, tinh khiết. Sở dĩ gà được chọn làm vật cúng tế linh thiêng trong đêm giao thừa là theo những câu truyện thần thoại của một số dân tộc Việt Nam, khi Ngọc Hoàng mới sáng tạo ra mặt đất, thấy lạnh lẽo, ẩm thấp, bèn sai 10 mặt trời suốt ngày đêm chiếu sáng để làm khô mặt đất. Nhưng đến khi mặt đất đã khô trắng, nứt nẻ rồi mà Ngọc Hoàng vẫn quên không thu các mặt trời lại, khiến con người và cây cỏ khô héo vì nắng nóng và hạn hán. Có một chàng dũng sĩ giương cung tên bắn liên tiếp rụng 9 mặt trời. Còn một mặt trời sợ hãi quá bay tít lên cao và trốn biệt không ló ra nữa. Mặt đất lại trở về thời kỳ lạnh lẽo, tối tăm. Con người và loài vật rủ nhau đi gọi mặt trời nhưng chẳng con nào gọi được, cuối cùng chỉ có con gà trống khoẻ mạnh cất tiếng gáy vang khiến mặt trời tò mò ngó xuống rồi quên cả sợ hãi hạ thấp dần độ cao, khiến mặt đất sáng bừng lên.

 

          Đêm giao thừa (trừ tịch) là đêm trời, đất tối tăm nhất, người ta bảo đó là lúc Mặt Trời ẩn mình sâu nhất. Nhà nhà bảo nhau đều cúng một con gà trống với hi vọng con gà sẽ đánh thức mặt trời chiếu sáng cho đủ đầy ánh nắng cả năm. Tục cúng gà trống trong đêm giao thừa chính là thể hiện ước mong “mưa thuận gió hoà” của cư dân nông nghiệp, nét văn hoá đi liền với tín ngưỡng tôn sùng mặt trời của nghề trồng lúa nước. Lâu dần, cúng gà trống hoa thành phong tục của mọi gia đình Việt Nam vào lúc giao thừa.

            Lễ ngoài trời: Trong tâm thức các thế hệ người Việt cho rằng mỗi năm Ngọc Hoàng cử một vị hành khiển xuống hạ giới trông coi việc nhân gian, hết năm thì vị thần năm cũ lại bàn giao công việc cho vị thần năm mới, nên việc cúng giao thừa ở ngoài trời để tiễn đưa thần năm cũ và đón rước thần năm mới. Có 12 vị hành khiển và 12 phán quan (phán quan là vị thần giúp việc cho các vị hành khiển). Mỗi vị làm một năm dưới dương gian và cứ sau 12 năm thì lại có sự luân phiên trở lại.

          Lễ ngoài trời, với các gia đình khá giả thường có hương, hoa, đèn (nến), trầu cau, quần áo, mũ thần linh và mâm lễ mặn (thủ lợn luộc - gà trống luộc, khổ thịt luộc, xôi, bánh chưng, các loại bánh kẹo khác nếu có)… tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà.

 
 
Thú chơi câu đối ngày tết 
 

            Cúng giao thừa xong, các thành viên trong gia đình thường chúc nhau cốc rượu, chúc nhau những lời tốt đẹp nhất. Đây là thời khắc mọi người đều hướng về một cõi thiêng liêng nhưng cũng rất đời thường, mong muốn mọi sự bình an.

 

          Việc xuất hành đầu năm cũng được mọi người coi trọng, chọn lựa đối với ngày tốt và hướng tốt. Ngày tốt, giờ tốt là ngày hoàng đạo, cát khánh. Hướng chọn đi là hướng có tài thần và hỷ thần Trong một ngày có 24 giờ, thì có 12 giờ hoàng đạo, có hướng hỷ thần, tài thần (hiện nay trên các tờ lịch bloc treo tường và điện thoại thông minh đều ghi đầy đủ).

           Có nhiều gia đình đã tổ chức đi xin lộc hương ở các đình, chùa, đền, miếu, hoặc hái lộc đầu Xuân về thờ.

           Lộc hái thường là những cành thuộc các cây có nhiều nhựa là Xanh, Si, Đa, Sung, đây cũng là những cây thuộc dòng tứ linh, do có nhiều nhựa nên các cành cây này đem về cắm vào bình, lọ mới nảy lộc, đâm chồi tươi tốt, đem lại sự sung mãn, may mắn.

          Tục xông nhà, xông đất đầu năm cũng được các gia chủ chú ý. Từ thời điểm giao thừa đến, nếu ai bước chân vào nhà cho dù là người nhà hay khách cũng đều coi như người đó xông nhà. Tâm lý của người Việt cho rằng năm đó có may mắn hay không là phụ thuộc vào “vía” của người xông nhà một phần. Các gia chủ thường thích người xông nhà là trẻ con ngoan ngoãn, con nhà hiền lành, tử tế, hoặc các cụ già cao tuổi khỏe mạnh, đức độ, sống hòa thuận với cộng đồng. Nhiều người dặn người xông nhà từ trước, ngoài các tiêu chuẩn về tài đức, còn phải hợp tuổi, hợp mệnh (theo tương sinh ngũ hành) hoặc hợp hàng Can trong Can - Chi 12 con giáp như tuổi người chủ nhà có Can là Canh thì chọn người có Can là Ất. Cũng như thế (Tân - Bính; Nhâm - Đinh; Quý - Mậu, Giáp - Kỷ), nhưng không thuộc cung tứ hành sung. Nếu  chủ nhà tuổi Bính Thân (1956) thì nên chọ người tuổi Tân Mùi (1961) hoặc Bính Thìn (1976)... Những người có tang trong năm trước họ thường tránh đi chúc Tết bởi họ nghĩ không muốn đem vận đen đến các gia đình khác. Các nhà buôn bán thường mong chọn người đầu tiên đến mua hàng tính xởi lởi, rộng rãi, không mặc cả, kỳ kèo...

         Ngày mồng 1, 2 Tết, các gia đình lại có mâm cơm cúng gia tiên, sau đó con cái thường tập trung về nhà bố mẹ bên nội, sau đó đi chúc tết họ hàng. Ngày mồng 2 về bên ngoại, ngày mồng 3 đi Tết thầy, cô giáo. Các cụ cao tuổi thường được co cháu tổ chức chúc thọ để tỏ lòng thành kính công ơn sinh thành. Người lớn mừng tuổi cho trẻ con những món quà nhỏ, thường là những đồng tiển mệnh giá nhỏ để các cháu được may mắn, khỏe mạnh hay ăn chóng lớn.

          Từ ngày 30 đến ngày 3 Tết, trên bàn thờ hương khói liên tục được thắp bởi quan niệm rằng, gia tiên và những người đã khuất luôn ở nhà. Hương vòng được sử dụng nhiều trong 4 ngày Tết.

          Ngày mồng 3, các gia đình thường lại tập trung trở về nhà bố mẹ hoặc nhà trưởng để dự lễ hóa vàng. 3 ngày Tết qua đi, các gia đình làm mâm cơm để tiễn gia tiên sau ba ngày về nhà vui Tết.

          Lễ vật dâng cúng trong lễ hóa vàng (lễ tạ năm mới) gồm hương, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu, đèn nến, bánh kẹo... mâm lễ mặn hoặc chay cùng các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.

          Từ xưa, do dân ta 90% là nông dân với nghề trồng lúa nước, mang tính thời vụ, công việc đồng áng tối ngày, các bữa ăn thường rất đơn giản, một phần do thiếu ăn, một phần do không có thời gian chế biến các sản phẩm như ngô khoai, đậu đỗ, do chính mình làm ra. Những lúc nhàn hạ, nông nhàn mới có điều kiện chế biến thành những món ăn ngon hơn so với những ngày thường, rồi những món đó ngày càng được nâng cao hình thức và chất lượng dùng cho việc cúng thần linh, gia tiên, biếu cho nhau, đặc biệt là vào những dịp lễ tết. Ngày Tết Nguyên đán ngoài gói bánh chưng các gia đình có điều kiện còn làm các loại mứt bí, mứt gừng, bánh gio, bánh khoai, bánh tẻ, kẹo lạc, nấu chè kho, chè lam... với mong muốn có một cái Tết chu đáo nhất nên những ngày Tết lại là những ngày bận rộn, tất bật nhất.

          Tết dưới thời bao cấp, mọi đồ đều khan hiếm, vùng nông thôn chủ yếu vẫn tự cung tự cấp. Còn các gia đình cán bộ, có hộ khẩu thành thị thì ăn Tết trong chế độ tem phiếu. Từ sau Tết ông Công, ông Táo, các gia đình hàng ngày xếp hàng mua đỗ xanh, mua gạo nếp, bột mì, nước mắm... Mỗi khẩu 1 cân gạo nếp, 1 lạng đỗ xanh. Mỗi sổ gạo được 2 cân bột mì. mỗi cán bộ được nửa cân thịt 1 tháng, các khẩu ăn theo chỉ có 1 lạng thịt 1 tháng. Để có được chục bánh chưng, nồi chân giò măng, rồi đĩa nem cả nhà phải nhịn ăn thịt từ tháng 11. Tem phiếu dồn vào để có thịt ăn Tết. Do không có tủ lạnh bảo quản như bây giờ nên cứ sát ngày 29, 30 Tết mới đi mua thịt, cá và hàng phân phối tiêu chuẩn Tết. Từ 3-4 giờ sáng đã dậy ra cửa hàng thực phẩm xếp hàng mua thịt. Các quầy thịt đông nghẹt. Do phải chờ đợi lâu nên hình thành thói quen xếp hàng bằng những viên gạch vỡ, rổ rá rách, bìa giấy, và cả những chiếc nón mê cũng được huy động thay cho chủ hộ.

          Trong cuộc sống đầy đủ của hôm nay, phần lớn các gia đình Việt Nam không còn phải lo nhiều về cái ăn, cái mặc. Nhắc đến chuyện ăn uống ngày Tết xưa ai cũng thấy cảm giác buồn vui lẫn lộn. Ngày nay mọi người không còn háo hức với các món ăn ngày Tết nhiều như xưa bởi cuộc sống giờ đã dư dả, những năm gần đây, nguồn thịt, cá, rau sạch được đặt hàng từ trước ở các vùng quê. Bây giờ, mọi người coi trọng việc nghỉ Tết, chơi Tết hơn là ăn Tết. Không khí vui của các gia đình bên nồi bánh chưng xưa nay đã không còn nhiều, vắng tiếng giã giò, giã chả... Mọi người đều đi mua cho nhanh, gọn. Nhiều chị em còn ở nhà, lên mạng xem các địa chỉ bán hàng online và gọi mang đến tận nhà. Không những bánh chưng, giò chả, nhiều nơi còn cung cấp dịch vụ bán cỗ nguyên cả mâm, hoa tươi cắm sẵn, mang đến tận nhà và bày giúp gia chủ. Cùng với việc thời gian nghỉ Tết thường dài hàng tuần nên nhiều gia đình nhất là các gia đình công chức, viên chức, doanh nghiệp tranh thủ ngày nghỉ Tết để đi du lịch, du Xuân.

           Tết đến, Xuân về, cho dù với giá trị của các vật chất những ngày Tết xưa so với Tết nay có khác nhiều, song trong tâm thức của mọi người dân chúng ta đều thấy giá trị tinh thần Tết Việt thật đầm ấm, những nghi lễ cần thiết của những ngày Tết cổ truyền là những nét văn hóa đẹp hướng về tổ tiên, quê hương, đất nước...


Nguyễn Thị Cuối

Về Trang Chủ
TRUNG TÂM VĂN HÓA NGHỆ THUẬT TỈNH HẢI DƯƠNG
Địa chỉ : Số 8 Đường Hồng Quang Thành phố Hải Dương 
Điện thoại : (0220).3856689, (0220).3856988 - Email: tapchivhttdlhd@gmail.com    
Trưởng Ban biên tập: Ông Nguyễn Minh Đức
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Đăng nhập
Số lượt truy cập
Đang truy cập: 95
Hôm nay: 520
Tháng này: 4,561
Tất cả: 90,875