Về dự có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành và doanh
nghiệp trung ương; các đồng chí: Nguyễn Trường Thắng – Phó Giám đốc Sở VHTTDL;
Ngô Quang Giáp – TUV, Bí thư Huyện ủy; Trần Văn Quyết – Phó Bí thư Huyện ủy,
Chủ tịch UBND huyện cùng các đồng chí trong BTV Huyện ủy, lãnh đạo các phòng,
ban, đơn vị của huyện và xã Cẩm Văn.

Một tiết
mục văn nghệ của CLB hát chèo, hát dân ca huyện Cẩm Giàng.
Diễn văn tại lễ dâng hương, Ủy viên BTV Huyện ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện Cẩm
Giàng Nguyễn Văn Công cho biết: đền Bia tọa lạc tại thôn Văn Thai (xã Cẩm Văn), là nơi
lưu giữ lời di nguyện thiêng liêng của Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh. Ông tên
thật là Nguyễn Bá Tĩnh, sinh năm 1330 tại làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, phủ
Thượng Hồng, nay là thôn Nghĩa Phú (xã Cẩm Vũ). Lên 6 tuổi, ông mồ côi cha mẹ,
được sư trụ trì chùa Nghiêm Quang (chùa Giám) đón về nuôi dạy. Suốt cuộc đời
tuổi thơ ông nương tựa chốn thiền môn. Năm 22 tuổi (1351), ông thi đỗ Hoàng
giáp nhưng không ra làm
quan. Thường xuyên phải chứng kiến những trận dịch lớn cướp đi mạng sống của
người dân nghèo khó, với mong muốn “chuyển
họa vi phúc, khởi tử hoàn sinh” cứu
lấy trăm họ muôn
dân, ông đã nghiên cứu cỏ cây, hoa lá cùng với việc nghiên cứu dược liệu và chủ
động trồng thuốc, tiếp tục thu thập những phương thuốc quý trong dân gian, lập
y xá ngay tại các chùa để chữa bệnh bằng những bài thuốc, phương pháp đơn giản
mà công hiệu cứu giúp những người bệnh nghèo, dập tắt những trận dịch lớn.
Đồng chí
Ngô Quang Giáp – TUV, Bí thư Huyện ủy đánh trống khai hội.
Căn cứ
vào các nguồn tài liệu hiện còn cho biết ông đã tham gia xây dựng 24 ngôi chùa
và biến các ngôi chùa thành các cơ sở chữa bệnh, cứu được nhiều người qua cơn
bệnh tật. Với sự tận tụy của Tuệ Tĩnh, phong trào trồng thuốc Nam ngày càng được truyền bá rộng rãi, nhiều gia đình
tự trồng thuốc và tự chữa bệnh. Năm 55 tuổi, sự nghiệp làm thuốc đang nở rộ thì
vua Trần xung ông vào đoàn đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Do có tài năng chữa
khỏi bệnh cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh), vua Minh phong ông là thái y, thiền
sư và giữ lại làm việc ở Viện Thái y, một thời gian sau ông mất tại Giang Nam.

Diễn văn
ca ngợi công đức của Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh.
Cuộc
đời và sự nghiệp của Tụệ Tĩnh đã để lại cho hậu thế những di sản quý báu trên
nhiều lĩnh vực, đóng góp to lớn cho
kho tàng tri thức y dược học dân tộc. Hơn 30 năm hoạt động khoa học, ông đã tập
hợp, nghiên cứu, hệ thống, tổng kết các phương pháp chữa bệnh, gồm 10 khoa, 2
môn, bằng 3.873 phương thuốc, 580 vị thuốc chữa 184 bệnh, Tuệ Tĩnh có cống hiến
to lớn về lý luận và thực tiễn cho nền y dược dân tộc, sự nghiệp của ông không
ngừng được kế thừa và phát huy. Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là người
kế tục xứng đáng sự nghiệp của ông ở thế kỷ XVIII. Khi mất, trên mộ tại Giang
Nam (Trung Quốc), ông cho người khắc tấm bia mang dòng chữ "Sau này có ai
bên nước Nam sang, nhớ cho hài cốt tôi về với".
Các đại
biểu và nhân dân dâng hương tưởng niệm Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh.
Năm
1690, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699) - người cùng làng Nghĩa Phú, trong
lần đi sứ phương Bắc đã thấy mộ phần Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh. Xúc động
trước khao khát được về quê hương của Đại danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho cho
người khắc lại tấm bia mang lời di nguyện của Tuệ Tĩnh. Tấm bia hiện đang được
thờ trang trọng tại hậu cung đền Bia. Mặc dù gần 700 năm Tuệ Tĩnh đi xa, chưa
trở về Tổ quốc, nhưng tại quê hương Cẩm Giàng, chỉ trong một không gian hẹp 3
km2 đã có 3 nơi thờ ông, đó là: đền Xưa - nơi ông sinh ra (thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm
Vũ), chùa Giám - nơi ông gắn bó, tỏa sáng tên tuổi và sự nghiệp (xã Định Sơn) và đền Bia - nơi lưu giữ kỷ vật thiêng liêng của Y tổ (xã Cẩn Văn).
BG